Từ ngày 1/7/2025, có bắt buộc phải nộp giấy xác nhận nơi cư trú của bị đơn khi nộp đơn khởi kiện tại Tòa án hay không?

Khởi kiện vụ án dân sự là một quyền cơ bản của công dân nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Để được Tòa án chấp nhận, đơn khởi kiện phải có đầy đủ các nội dung mà pháp luật quy định. Vậy câu hỏi đặt ra là: Có bắt buộc phải nộp giấy xác nhận nơi cư trú của bị đơn khi nộp đơn khởi kiện tại Tòa án hay không? Bài viết dưới đây, Luật Nguyễn Khuyến sẽ giải đáp và cung cấp thông tin về vấn đề này.

Xem thêm:

 Quy định pháp luật về ủy quyền nộp đơn khởi kiện tố tụng

Án phí tòa án khi giải quyết vụ việc dân sự?

1. Giấy xác nhận nơi cư trú của bị đơn là gì?

Căn cứ vào Khoản 7 Điều 3 Thông tư 56/2021/TT-BCA, giấy xác nhận nơi cư trú được sử dụng để “xác nhận thông tin về thời gian, địa điểm, hình thức đăng ký cư trú và các nội dung khác của cá nhân, hộ gia đình khi có yêu cầu” 

Căn cứ vào Khoản 3 Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2025): Bị đơn trong vụ án dân sự là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc bị cơ quan, tổ chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm.

Như vậy, có thể hiểu, Giấy xác nhận nơi cư trú của bị đơn là giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền cấp, dùng để xác nhận thông tin về thời gian, địa điểm, hình thức đăng ký cư trú và các nội dung khác của người bị khởi kiện trong vụ án dân sự.

giấy xác nhận nơi cư trú
Giấy xác nhận nơi cư trú (Ảnh minh hoạ)

 

2. Có bắt buộc phải nộp giấy xác nhận nơi cư trú của bị đơn khi nộp đơn khởi kiện tại Tòa án hay không?

Căn cứ vào điểm đ Khoản 4 Điều 189 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2025), một trong các nội dung chính của đơn khởi kiện bao gồm: “đ) Tên, nơi cư trú, làm việc của người bị kiện là cá nhân hoặc trụ sở của người bị kiện là cơ quan, tổ chức; số điện thoại, fax và địa chỉ thư điện tử (nếu có). Trường hợp không rõ nơi cư trú, làm việc hoặc trụ sở của người bị kiện thì ghi rõ địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở cuối cùng của người bị kiện”.

Như vậy, thông tin về nơi cư trú của bị đơn là một trong những nội dung bắt buộc phải có trong Đơn khởi kiện của người khởi kiện.

Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử, một số Toà án khi nhận đơn khởi kiện sẽ yêu cầu người khởi kiện nộp giấy xác nhận nơi cư trú của bị đơn do cơ quan có thẩm quyền cấp, còn có một số Toà án thì không bắt buộc phải có giấy xác nhận này, dẫn đến sự thiếu thống nhất trong quá trình áp dụng pháp luật.

Hiện nay, có 2 quan điểm khác nhau về vấn đề này, cụ thể:

Quan điểm thứ nhất, người khởi kiện bắt buộc phải nộp giấy xác nhận nơi cư trú của người bị khởi kiện mà được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp.

Căn cứ vào Khoản 2 Điều 5 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP: Người khởi kiện đã cung cấp địa chỉ “nơi cư trú, làm việc, hoặc nơi có trụ sở” của người bị kiện cho Tòa án theo đúng quy định của pháp luật và hướng dẫn tại khoản 1 Điều này tại thời điểm nộp đơn khởi kiện mà được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp, xác nhận hoặc có căn cứ khác chứng minh rằng đó là địa chỉ của người bị kiện thì được coi là đã ghi đúng địa chỉ của người bị kiện theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Như vậy, cần phải xin giấy xác nhận của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền về nơi cư trú của bị đơn hoặc có căn cứ khác chứng minh rằng đó là địa chỉ của người bị kiện. Bởi lẽ, việc xác nhận địa chỉ của bị đơn không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự mà còn là yếu tố quan trọng để Toà án có thể tống đạt các văn bản đến người bị kiện, đồng thời nhằm hạn chế việc bị đơn che giấu địa chỉ để trốn tránh nghĩa vụ, trách nhiệm của mình.

Quan điểm thứ hai, người khởi kiện không bắt buộc phải nộp giấy xác nhận nơi cư trú của người bị khởi kiện mà được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp.

Căn cứ vào Khoản 3 Điều 13 Nghị định 62/2021/NĐ-CP quy định như sau:

“3. Các trường hợp được cung cấp, trao đổi thông tin, tài liệu trong Cơ sở dữ liệu về cư trú:

  1. a) Cơ quan tiến hành tố tụng được cung cấp, trao đổi thông tin, tài liệu trong Cơ sở dữ liệu về cư trú phục vụ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử;
  2. b) Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu chuyên ngành, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội được cung cấp, trao đổi thông tin, tài liệu trong Cơ sở dữ liệu cư trú để phục vụ công tác theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao;
  3. c) Công dân được cung cấp, trao đổi thông tin của mình trong Cơ sở dữ liệu về cư trú;
  4. d) Cơ quan, tổ chức và công dân không thuộc quy định tại các điểm a, b, c khoản này có nhu cầu cung cấp, trao đổi thông tin, tài liệu trong Cơ sở dữ liệu về cư trú của công dân khác phải được công dân đó đồng ý bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực và được Trưởng Công an cấp xã hoặc Trưởng Công an cấp huyện nơi không có đơn vị hành chính cấp xã tại nơi công dân đó đăng ký thường trú hoặc tạm trú đồng ý cho phép cung cấp, trao đổi thông tin.”

Như vậy, người khởi kiện muốn có giấy xác nhận nơi cư trú của người bị kiện thì phải nhận được sự đồng ý bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực của người bị kiện và được Trưởng Công an cấp xã nơi người bị kiện đăng ký thường trú hoặc tạm trú đồng ý cho phép.

Do đó, để người khởi kiện xin được giấy xác nhận nơi cư trú của người bị kiện là vô cùng khó khăn. Hơn nữa, trong một số trường hợp, khi người bị kiện có ý muốn che giấu địa chỉ nhằm mục đích lẩn tránh thì việc người khởi kiện xin giấy xác nhận nơi cư trú dường như là bất khả thi.

giấy xác nhận nơi cư trú
Ảnh minh hoạ

Xem xét 2 quan điểm trên, tác giả đồng tình với quan điểm thứ hai, bởi lẽ nếu yêu cầu người khởi kiện phải xin cấp giấy xác nhận nơi cư trú của bị đơn thì sẽ gây cản trở rất lớn cho người khởi kiện. Đặc biệt, theo điểm đ Khoản 4 Điều 189 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì người khởi kiện chỉ cần cung cấp nơi cư trú của người bị kiện hoặc địa chỉ nơi cư trú cuối cùng của người bị kiện trong trường hợp không rõ nơi cư trú, chứ không nhất thiết phải xin giấy xác nhận nơi cư trú của bị đơn. 

Qua bài viết trên đây, Luật Nguyễn Khuyến đã cung cấp những thông tin về “Có bắt buộc phải nộp giấy xác nhận nơi cư trú của bị đơn khi nộp đơn khởi kiện tại Tòa án hay không?”. Nếu quý khách hàng còn vướng mắc pháp lý cần giải đáp, vui lòng liên hệ tới Luật Nguyễn Khuyến qua SĐT: 0947 867 365 (Luật sư Nguyễn Bỉnh Hiếu) để được Luật sư tư vấn chính xác và kịp thời. Luật Nguyễn Khuyến chân thành cảm ơn

103 Lượt xem
Bài viết liên quan